Trong bộ Luận Đại Trí Độ, Ngài Cưu Ma La Thập có giảng rõ: Trì Chú có nghĩa là gìn giữ và bảo vệ. Gìn giữ là gom góp các pháp lành không cho tan mất. Bảo vệ là ngăn ngừa tâm bất thiện không cho phát sanh. Trì Chú là giúp tăng trưởng Huệ lực, Thần lực.
Duy trì tâm lực, bảo
tồn chân khí (như người bị mất hết chân khí sẽ bị bệnh hoài, thân tâm thường mệt
mỏi, ngày càng kiệt sức, trí huệ mê mờ, không còn tự chủ, dễ bị Ma quỷ dựa nhập).
Người trì Chú có
được chánh tâm, chánh ý.
Thống nhiếp và duy trì vô lượng Phật Pháp, khiến không bao giờ hoại diệt.
Khi trì Chú, tay
nên kết Ấn, miệng trì Chú (trì cho ra tiếng), mắt nhìn tượng Phật, tâm quán (nhớ
tưởng) chữ Rảm (chủng tử biểu tượng cho bản thể của chư Phật).
Pháp môn Trì Chú
giúp cho người tu “phát sanh trí huệ” để kiểm soát được hành động, lời nói, ý
nghĩ và phân biệt được rõ ràng đâu tà, đâu chánh. Như vậy thì hành động, lời
nói và ý nghĩ sẽ trở nên trong sáng, vọng niệm tự nhiên không khởi. Không khởi
niệm phân biệt, giữ tâm trong sáng thì mới phát sinh ra được “đạo lực” (cái lực
nầy mới có khả năng độ mình, độ người giúp giải được nạn Thiên tai và được giải
thoát).
Cách niệm Phật,
trì Chú lớn tiếng nầy gọi là “Bố Ma” (làm cho ma khiếp sợ mà bỏ chạy), nhiếp được
thân, khẩu, ý trong sáng và có được những lợi ích đặc biệt sau đây:
- Diệt được sự buồn ngủ, hôn trầm.
- Tâm không tán loạn.
- Chuyện đời chẳng lọt vào tai.
- Có cặp mắt sáng.
- Tiếng nói rổn rảng, mạnh mẽ, cứng chắc,
đầy thần lực.
- Có tướng đi mạnh mẽ, oai phong.
- Lời nói thẳng thắn, mạnh dạn.
- Tâm thần cương trực, không nhút nhát,
không sợ sệt, xông pha vô trận hàng phục ma quân.
- Dõng mãnh, tinh tấn.
- Tâm lực, thần lực phát sanh ra cực mạnh.
- Bệnh nghiệp được tiêu trừ.
- Tứ Đại điều hoà.
- Tâm thể an nhiên.
- Khi trì Chú phát ra vòng hào quang bao
phủ quanh thân người trì Chú.
- Bùa ngải, độc trùng, gió độc không xâm
phạm đến thân mình được.
- Thiên Ma phải nể sợ.
- Vong linh vất vưởng chung quanh nghe được
âm thanh của Thần Chú đều được siêu thoát.
- Côn trùng, chuột, kiến, gián, nhện, bọ,
tự động đi mất, hoặc được thoát kiếp hết.
- Những vong linh hữu duyên, và cửu huyền
cũng được siêu thoát.
- Thiên Long Hộ Pháp luôn ở bên cạnh hộ
trì, an ủi, nhắc nhở, chỉ dạy v.v…
- Tất cả sở cầu đều được như ý.
- Danh tiếng từ từ vang khắp mười phương.
- Tam Muội hiện ra trước mắt.
- Mười phương chư Phật, chư đại Bồ Tát đều
vui mừng thọ ký.
- Lâm chung chánh niệm, biết trước ngày giờ,
vãng sanh Cực Lạc quốc.
Tu tập theo pháp
môn Mật Tịnh tức là “luyện” cho thân tâm được thuần thục, nó đòi hỏi người tu một
sự tha thiết, quyết tâm xả bỏ những tâm xấu, luôn mong cầu được giải thoát, chứ
không phải là “có căn” (Mật) mới tu được. Nếu căn cơ cao, tâm đã tịnh, thì cần
chi phải tu (niệm Phật, hay Trì Chú)?
Ở phần trước đã có
nói:
Muốn đạt được kết
quả tốt đẹp trên đường tu mật tông thì điều tiên quyết là chớ nên khởi lòng
nghi ngờ, khinh báng chi cả. Dù cho lòng “nghi”, “chấp” ấy nhỏ như hạt bụi đi chăng
nữa, quyết cũng chẳng nên có. Cứ một lòng chặc dạ y theo đó mà hành trì thì được
gọi là “đúng như pháp” vậy! Vì chư Phật, Bồ Tát quyết không bao giờ vọng ngữ
(nói lời dối gạt)!
Cho nên, muốn bảo
đảm được vãng sanh trong kiếp nầy, song song với niệm Phật ta cần phải kiêm
thêm phần Trì Chú, mới giải được sự khảo đảo (khi oan gia) kéo đến, và chắc
thêm phần vãng sanh cho chính mình./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét